Một tuần trước, người cá trong từ đường đã tắt thở.
Trưởng thôn làm lễ yến người cá theo lệ.
Trong buổi tiệc, trưởng thôn đi đến bên xác người cá đặt giữa chính sảnh, lấy ra từ cơ thể cô ta một viên ngọc tỏa sáng kỳ dị.
Ông ta đi thẳng đến chỗ mẹ tôi, đưa viên ngọc qua.
“Dì Lý, lần này đến lượt nhà chị ra người cá rồi.”
Nói xong, ông ta nhìn sang tôi, nở một nụ cười hiền hậu.
“Tiểu Hàn năm nay bao nhiêu tuổi rồi?”
2
Mẹ tôi mặt mày tái nhợt, một tay kéo tôi ra sau lưng, một tay run rẩy nhận lấy viên ngọc.
Về đến nhà, mẹ ngồi phịch xuống đất, nước mắt rơi như đứt chuỗi.
Chị tôi nghe thấy tiếng động, chống gậy từ trong phòng thò đầu ra.
“Trong yến người cá, đã xảy ra chuyện gì sao?”
Mẹ xua tay, bảo tôi mau đỡ chị vào trong.
Nhưng vừa đỡ chị nằm xuống giường, ngoài sân đã ồn ào cả lên.
Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ, thấy trưởng thôn dẫn theo một đám người, gõ trống thổi kèn, khiêng một cái giỏ cá khổng lồ vào sân nhà tôi.
Mẹ vội bò dậy, chạy ra trước đoàn người, quỳ phịch xuống.
“Chồng tôi chết sớm, chỉ còn hai mẹ con nương tựa.
“Xin các ông, tha cho chúng nó, muốn gì tôi cũng được.”
Trưởng thôn nghiêng người tránh, nghiêm giọng nói:
“Dì Lý, chị cũng phải hiểu lý một chút.
“Mỗi nhà luân phiên ra người cá, là quy củ bao đời của làng.
“Nhà chị đã được làng chăm lo bao nhiêu năm rồi.
“Giờ là lúc làng cần chị góp sức, sao lại trốn tránh?”
Nghe vậy, trong đám người khiêng giỏ cá cũng có kẻ chỉ trỏ bàn tán.
Thấy dân làng bắt đầu xôn xao, trưởng thôn phẩy tay ra hiệu đặt giỏ cá xuống.
Rồi ông ta đỡ mẹ tôi dậy.
“Dì Lý, giỏ cá này tôi để lại đây.
“Dù thế nào, sáng mai tôi muốn thấy trong đó có một cô gái còn trinh.”
Nói rồi, ông ta ngẩng đầu liếc nhìn tôi và chị qua cửa sổ, cười lạnh:
“Nếu không, lần này ta sẽ làm hai người cá.”
3
Trưởng thôn dẫn dân làng nghênh ngang bỏ đi, còn mẹ tôi thì đứng bất động giữa sân.
Chị nghe rõ lời ông ta, đưa tay ôm lấy tôi:
“Tiểu Hàn, em đã là đứa lớn rồi.
“Em có thể chăm sóc mẹ, chăm sóc nhà cửa, đúng không?”
Tôi ngây ngô gật đầu, cười toe:
“Tiểu Hàn là đứa lớn, Tiểu Hàn chăm sóc mẹ.”
Chị rưng rưng gật đầu, bảo tôi đi gọi mẹ.
Rồi dặn tôi, đi ngủ sớm.
Tôi đều nghe lời, chị nói tôi là đứa lớn rồi, đứa lớn thì phải nghe lời.
Sáng hôm sau, tiếng ồn ào ngoài sân đánh thức tôi.
Tôi rón rén mở cửa phòng, ló đầu ra.
Trong sân có rất nhiều người, dẫn đầu là trưởng thôn.
Ông ta đứng trước giỏ cá, một tay nắm thành giỏ, một tay chỉ vào mẹ tôi, sắc mặt khó coi.
“Sao lại không phải là Tiểu Hàn? Tiểu Hàn còn nhỏ, làm người cá có thể dùng được nhiều năm hơn.
“Tiểu Uyển đã mười tám rồi, dùng được bao lâu nữa?”
Mẹ vừa định nói thì trong giỏ cá, chị tôi nắm lấy mép giỏ, ló đầu ra, cướp lời:
“Tiểu Hàn chẳng qua là đứa ngốc, cho dù làm người cá thì có thể cầu được gì cho làng chứ?
“Tôi tự nguyện làm người cá này, tất nhiên sẽ càng tận tâm tận lực hơn!”
Bình thường chị tôi ghét nhất ai nói tôi là ngốc.
Ai mà dám nói, chị dù phải chống gậy cũng sẽ đến đứng trước cửa nhà họ một tiếng đồng hồ.
Vậy mà giờ đây, khi nói tôi là ngốc, chị lại nở nụ cười khinh thường.
Tôi thấy không vui, thầm nghĩ làm người cá chắc là chuyện rất tốt.
Tốt đến mức chị cũng muốn tranh giành với tôi.
Nghe chị nói xong, trưởng thôn cúi xuống nhìn kỹ chị:
“Cô thật sự tự nguyện làm người cá sao?”
Chị gật đầu, trưởng thôn liền cười to:
“Dì Lý có cô con gái ngoan, biết điều lắm!
“Tự nguyện làm người cá, pháp lực là mạnh nhất.”
4
Một đám người khiêng giỏ cá, gõ trống thổi kèn rộn ràng đi về phía từ đường.
Mẹ tôi cũng vội vã kéo tôi theo sau.
“Không thể để chị con đi một mình được.”
Đoàn người dừng lại trước từ đường, bốn thanh niên lực lưỡng khiêng giỏ cá đặt lên tế đàn.
Trưởng thôn tuyên bố lễ tế người cá bắt đầu.
Sau khi đốt hương khấn trời xong, chị tôi được người ta bế ra khỏi giỏ, đặt lên tế đàn.
Chị lấy ra viên ngọc mà hôm qua trưởng thôn đưa cho mẹ, nuốt xuống trước mặt mọi người.
Ngay sau đó, chị ngã xuống bất tỉnh.
Trưởng thôn lấy ra thanh dao đá xanh cá trong từ đường, rạch mở quần chị, lia thẳng xuống đôi chân.
Máu bắn tung tóe, tôi không kìm được hét lên.
Các dì bên cạnh vội bịt miệng tôi lại.
“Không được kinh động lễ tế người cá!
“Nếu có sai sót, chị con chết là chuyện nhỏ, làm hỏng người cá mới là chuyện lớn!”
Tôi kinh hãi, làm người cá chẳng phải là chuyện tốt sao? Sao lại chết được? Tôi không muốn làm người cá nữa.
Nhìn sang mẹ, cũng có mấy người phụ nữ giữ chặt, bịt miệng không cho phát ra tiếng.
Giữa bầu không khí quái dị, trưởng thôn dùng chỉ ruột cá khâu liền đôi chân chị.
Hai chân chị bị khâu lại với nhau, hai bàn chân đã bị gỡ xương vừa vặn thành hai nửa đuôi cá.
Trông chẳng khác nào một người cá thật sự, lặng lẽ nằm trên tế đàn.
Trưởng thôn đổ một gáo nước biển lên chân chị, miệng hô lớn:
“Cung nghênh người cá giáng lâm.”
Ông ta quỳ xuống trước, dân làng cũng đồng loạt quỳ theo.
Mọi người đều giơ hai tay lên, miệng cung kính hô gọi người cá.
Không biết hô bao nhiêu lần, bỗng trong đám đông vang lên tiếng reo mừng:
“Thành rồi! Người cá thành rồi!”
Tôi ngẩng đầu, trên tế đàn, chị đã tỉnh lại.
Lần đầu tiên chị có thể đứng lên mà không cần chống gậy.
Bằng đôi chân đã bị lấy xương — hoặc nói đúng hơn, là chiếc đuôi cá.
5
Chị được đưa vào từ đường.
Trưởng thôn nói, chị không thể dùng tên cũ nữa, giờ gọi là người cá.
Dân làng bắt đầu quỳ trước mặt chị, thành kính dập đầu.
Họ cầu cho mưa thuận gió hòa, cho gia đình yên ấm.
Cũng có người cầu sức khỏe, cầu con cháu đầy nhà.
Chị trở thành người cá, được cúng bái trong từ đường, đồ ăn cũng tốt hơn nhiều.
Ban ngày, tôi và mẹ đều đến từ đường nói chuyện với chị, cũng thường được chia cho chút đồ ăn.
Trưởng thôn đôi khi đến xem, luôn miệng nói việc chị làm người cá là vì lợi cho chị.
“Nếu không, chị và nhà chị sao có được đồ tốt thế này?
“Nhìn xem, Tiểu Hàn mặt mày cũng có da có thịt rồi.”
Tôi có chút vui mừng vì chị làm người cá, khiến cuộc sống của tôi và mẹ cũng tốt hơn.
Làm người cá, quả nhiên là chuyện tốt.
Tôi cầm miếng thịt chị chia, xé nhỏ ra ăn, lòng tràn ngập vui sướng.
Sau này tôi cũng muốn làm người cá, để mẹ và chị được sống tốt mãi như vậy.
Thời gian trôi qua, chẳng mấy chốc đã đến mùa đánh cá.
Theo lệ, người cá sau một tháng hưởng cúng tế, phải cầu cho làng được mùa bội thu.
Thế nhưng suốt ba ngày liền, thuyền cá ra khơi đều trở về tay trắng.
Dân làng nói chị có phép, đang cố tình làm cao.
“Người cá cố ý giở trò, chỉ biết hưởng cúng tế mà không phù hộ cho làng.
“Phải dạy cho nó một bài học!”
6
Ngày thứ tư, khi mẹ tôi cùng dân làng ra biển, phát hiện chiếc thuyền nhỏ nhà tôi bị ai đó đục thủng.
Mẹ hỏi là ai làm, nhưng chỉ nhận được những ánh mắt lạnh lùng:
“Dù sao ra biển cũng chẳng đánh được gì, thuyền nhà chị đục hay không có khác gì nhau.”
Mẹ không nói gì, lặng lẽ đến từ đường.
Chị hỏi mấy lần, mẹ mới nói việc thuyền bị phá.
Hôm đó, đồ cúng được trưởng thôn mang đến.
Ông ta bưng một chậu lớn toàn thức ăn thiu, hất xuống trước mặt chị.
“Không phải cô nói, cô làm người cá là tự nguyện sao?
“Vậy sao không cầu được mùa cho làng?”
Ông ta nghiêng người tới gần, mắt ánh lên giận dữ:
“Không thể chỉ biết hưởng mà không làm việc chứ?
“Tôi nói thế này là vì muốn tốt cho cô, cô mà khiến dân làng nổi giận thì…”
Trưởng thôn ghé sát tai chị, mắt lại liếc sang tôi và mẹ.
“Cô phải nhớ, muốn tai họa không chạm đến người nhà, thì phúc cũng không được lan tới người nhà.
“Mẹ và em cô đâu ít lần được hưởng đồ cúng của làng!”
Hôm đó, thuyền đánh cá vẫn về tay trắng.
Đêm xuống, cửa sổ nhà tôi bị ném đá vỡ, con chó gác sủa suốt đêm.
Mẹ ôm tôi co ro trong góc giường, bịt chặt tai tôi, nước mắt thấm ướt cả áo.
Ngày thứ năm, mẹ bị đánh vỡ đầu, mà chẳng ai chịu nhận.
Ngày thứ sáu, con chó duy nhất trong nhà bị đầu độc, miệng trào máu chết ngay trước cửa.
Thế nhưng thuyền cá của làng vẫn về không.
Ngày thứ bảy, đàn ông trong làng nổi giận.
Họ vây quanh cổng từ đường, gào đòi giết người cá để trút giận.
Trưởng thôn vội vàng chạy đến, nói gì đó với người cầm đầu, rồi đám đông tản đi.
Đêm đó, có một gã đàn ông bịt mặt lén vào từ đường.
Rồi đến người thứ hai, người thứ ba.
Trong từ đường vang lên tiếng chị khóc, xen lẫn tiếng cười gằn của đàn ông.
Mẹ vừa khóc vừa gõ cửa nhà trưởng thôn, cầu xin ông ta cứu chị.
Trưởng thôn qua cánh cửa thở dài:
“Tôi cũng muốn cứu người cá, nhưng tôi không còn cách nào.
“Nó khiến đàn ông không có việc làm, thì đành để họ tìm chút việc trên người nó thôi.”
Ngày thứ tám, khi tôi và mẹ đến từ đường, thấy chị nằm giữa giường, mình mẩy tím bầm, quần áo xộc xệch.
Bên cạnh là trưởng thôn đang vội vã chỉnh lại khuy áo.
Trước khi đi, ông ta xoa đầu tôi, nói với chị:
“Em cô cũng lớn rồi.
“Nếu đàn ông không có việc làm mãi, họ sẽ chán đấy.”
Chị tái mặt.
Từ ngày hôm đó trở đi, mỗi khi dân làng ra biển, thuyền cá đều đầy ắp tôm cá.
“Trên đời này làm gì có chuyện hưởng cúng mà không làm việc.”
“Người cá không nghe lời, thì phải dạy cho biết điều.”
Mỗi lần đi ngang qua từ đường, dân làng đều liếc vào trong.
Kể từ hôm đó, trưởng thôn buổi tối đều khóa cửa từ đường.
Thì ra ông ta vẫn có cách không để đàn ông khác ức hiếp chị.
Cũng chính lúc đó tôi mới hiểu.
Người cá trong làng, ban ngày được tôn kính, cao quý rạng ngời.
Còn khi màn đêm buông xuống, chỉ là một món đồ, ai cũng có thể làm nhục.
Làm người cá, hóa ra chẳng tốt đẹp gì cả.
8
Tháng thứ ba kể từ khi chị tôi bị làm thành người cá, trong làng bỗng xuất hiện một căn bệnh lạ.
Ban đầu là đàn ông trong làng, da họ trở nên khô ráp, nứt ra những đường giống như vảy cá.
Sau đó, phụ nữ và trẻ con cũng mắc phải căn bệnh kỳ quái ấy.
Lúc đầu chỉ là những vết nứt, rồi dần dần những vảy ấy bắt đầu tróc lên.
Toàn bộ dân làng, già trẻ trai gái, trông chẳng khác nào cá vàng bị bung vảy.
Chạm vào thì đau, gió thổi qua cũng đau, chỉ khi ngâm mình trong nước mới thấy dễ chịu đôi chút.
Cả làng đều mắc bệnh, chỉ có tôi và mẹ là không nhiễm.
Không biết ai truyền ra tin đồn, nói rằng tôi và mẹ đã đầu độc làng, khiến mọi người bị bệnh.
Nhưng nhà tôi là nghèo nhất làng, đừng nói đến thuốc độc, ngay cả lương ăn dư một chút cũng không có.
Dân làng trói chúng tôi mang đến trước từ đường, buộc lên tế đàn, rồi ném đá về phía chúng tôi.
Mẹ tôi liều mạng lấy thân che cho tôi, khàn giọng gào lên giữa đám đông:
“Không phải chúng tôi, thật sự không phải, chúng tôi cũng không biết chuyện gì xảy ra cả.”
Nhưng đáp lại chỉ là tiếng người lạnh lùng:
“Mọi người đều bệnh, chỉ có hai mẹ con các người không bị, chẳng phải các người thì còn ai vào đây!”
Họ điên cả rồi!
Họ biết rõ không phải tôi và mẹ hại họ, nhưng họ chịu đau khổ, liền cần một nơi để trút giận.
Mẹ con tôi khác họ, thế là trở thành vật hiến tế cho cơn giận của cả làng.
Đầu mẹ bị ném vỡ, máu chảy loang khắp đất.
Tiếng chửi rủa của dân làng dần nhỏ lại.
Cũng đúng lúc đó, mọi người mới nghe thấy trong từ đường, có một giọng nói vang lên:
“Ta có thể chữa bệnh cho các người.”
9
Đám người không còn để ý đến tôi và mẹ, ào ào xông vào trong từ đường.
Chính giữa từ đường là chị tôi nằm đó, dân làng vây quanh, nhao nhao hỏi cách chữa.
Chị im lặng rất lâu, cho đến khi mọi người dần yên lại, mới chậm rãi mở miệng:
“Các người đã đòi hỏi từ biển quá nhiều.
“Rõ ràng đã đủ đầy, nhưng vẫn tham lam không biết dừng.
“Đây là sự trừng phạt của thần, là báo ứng của Hải Thần.”
Trưởng thôn đẩy đám người ra, tiến đến trước mặt chị, quát lớn:
“Người cá không được nói bậy!
“Đây chỉ là một căn bệnh, làm gì có thần thánh nào trừng phạt!”
Chị ngẩng đầu, nhìn thẳng vào mắt trưởng thôn, môi kéo ra một nụ cười yếu ớt.
“Nhưng tất cả những điều này, bao gồm cả cách chữa, đều là người cá nương nương nói cho ta biết.”
Người cá nương nương mà chị nhắc tới chính là bức tượng khổng lồ thờ sau lưng chị trong từ đường.
Nghe nói đó là bức tượng của người phụ nữ đầu tiên bị làm thành người cá.
Khi làng gặp nạn, cô ta tự nguyện hiến thân làm người cá để cứu làng.
Vì vậy dân làng lập tượng, thờ phụng cô ta làm người cá nương nương.
Chị tôi chỉ tay về phía pho tượng phía sau, khẽ nói:
“Mọi người thử nhớ lại xem, có phải nhà nào được mùa hơn, bệnh lại càng nặng hơn không?”
10
Chị tôi tuy ở mãi trong từ đường, nhưng lại kể vanh vách từng nhà trong làng bị nặng nhẹ ra sao.
Không ai còn dám nói chị bịa chuyện, ai nấy đều tin là người cá nương nương hiển linh.
Trưởng thôn là người đầu tiên quỳ xuống, dập đầu vang cả tiếng.
Những người khác thấy vậy cũng quỳ theo, rập rập vang khắp từ đường.
Chỉ còn lại tôi và mẹ đứng lặng.
Chị nhìn thấy chúng tôi, môi nở nụ cười, nhưng ánh mắt lại như sắp khóc.
“Muốn chữa bệnh này, phải dùng thần lực của người cá làm vật hiến tế.”
Chị vừa nói, đám người lập tức ngừng động tác, dỏng tai nghe.
“Phải cùng người cá giao hợp mà không được xuất, mỗi bảy ngày một lần, đủ bốn lần thì một tháng là khỏi.
“Nếu có xuất, thứ còn lại trên người cá chính là thuốc của đàn bà, ăn ba lần cũng có thể khỏi.”
Chị đỏ bừng mặt, còn mấy gã đàn ông trong làng thì cười khẩy, ánh mắt dâm đãng:
“Người cá, có phải ngươi thèm đàn ông rồi không?”
Chị trừng mắt nhìn hắn, giọng nghẹn nhưng cứng rắn:
“Ngươi tưởng ta muốn cứu các ngươi à?”
“Bốp!” — một tiếng tát vang lên, trưởng thôn giáng cho gã đàn ông kia một cái bạt tai.
“Cút! Sao mày dám hỗn với người cá!”
Rồi ông ta quay lại, cười nịnh bợ, dịu giọng nói với chị:
“Dù sao cô cũng được làng cúng tế, nếu có cách cứu, chẳng lẽ lại để dân làng chết hết sao?”
Ông ta lại kéo tôi và mẹ đến gần:
“Chỉ cần cô chữa khỏi cho mọi người, từ nay nhà cô là ân nhân của cả làng.
“Tôi đảm bảo, lần sau đến lượt ra người cá sẽ bỏ qua nhà cô.
“Như vậy được chưa?”
Chị nhìn tôi, mắt hoe đỏ, lại xác nhận mấy lần với trưởng thôn rồi mới gật đầu đồng ý.
Khi tan, tôi nghe loáng thoáng trưởng thôn khẽ lẩm bẩm:
“Người cá, vốn phải hiến dâng tất cả cho làng, kể cả sinh mạng.”
11
Để lấy lòng chị, trưởng thôn sắp xếp cho tôi ở cùng chị trong từ đường.
“Người cá đang làm việc đại thiện, con phải chăm sóc cô ấy thật tốt.”
Trước khi đi, ông ta còn cho tôi một viên kẹo. Tôi vừa ăn vừa nghĩ, còn có thể làm việc tốt như vậy, làm người cá quả thật là điều tuyệt nhất.
Người đầu tiên được chọn để chữa bệnh là Ngô A Tam.
Chính hắn là kẻ trước đây cầm đầu chửi bới, đòi đánh chết mẹ con tôi.
Hắn cắm cúi trên người chị, không nói một lời, sắp đến lúc phải dừng thì chị đột ngột hỏi:
“Lúc đó, ngươi định làm nhục mẹ ta hay là em ta?”
Thân thể hắn khựng lại, ánh mắt tràn đầy căm hận, rồi chui xuống khỏi giường.
Tôi nhặt chiếc khăn trải dưới người chị, túm bốn góc, đưa cho hắn.
“Cầm đi, thuốc của vợ ngươi đấy.”
Chị nhìn hắn chằm chằm, hắn không dám nhìn lại, chỉ cúi đầu ôm khăn chạy đi.
Tôi lau rửa cho chị sạch sẽ, người thứ hai đã vội vàng bò lên.
Cứ như thế bảy ngày, đàn ông trong làng lần lượt kéo đến từ đường.
Có người tự khỏi, có kẻ lấy “thuốc” đem về.
Một tháng sau, hầu như ai trong làng cũng được chữa.
Ngay cả Ngô A Tam, sau ba lần đem “thuốc” về cho vợ, đến tuần thứ tư thì tự mình chữa bệnh.
Nhưng vợ hắn lại chết.
12
Đêm vợ hắn chết, chính là đêm thứ tư hắn “chữa bệnh” ở từ đường.
Hàng xóm nói, nửa đêm nghe trong nhà Ngô A Tam vang tiếng nước bì bõm.
Rồi là những tiếng “hớ… hớ…” nhỏ nhưng rõ ràng, như người khát nước sắp chết cầu xin được uống.
Khi hắn về đến nhà, vợ đã chết cứng.
Hai chân dính chặt vào nhau, mắt cá buộc dây thừng, treo ngược trên mái hiên.
Trên thân xác là những mảng vảy bung hết, gió thổi qua, vảy rơi lả tả như mưa.
Cạnh xác treo lủng lẳng là chiếc thang mà cô ta dùng để leo lên buộc dây.
Cái xác bốc mùi tanh hôi như cá ươn, nồng nặc đến mức cả làng phải thắp đèn.
Ngay cả mấy người đang ở từ đường “chữa bệnh” cũng phải dừng lại vì mùi hôi.
Dân làng kéo đến nhà hắn, nhìn thi thể treo đong đưa, vảy rơi lộp độp.
Ngô A Tam ngã quỵ xuống đất, ướt đẫm cả đáy quần.
13
Chị tôi bị trưởng thôn sai người khiêng đến.
Vừa thấy chị, hắn bỗng có thêm can đảm, lao đến định nói, bị người giữ lại.
Hắn nhìn trưởng thôn, giọng run rẩy:
“Ngài không thấy sao? Người cá đang lừa chúng ta!
“Nàng ta nói đàn bà ăn ba lần thuốc sẽ khỏi, nhưng vợ tôi chết rồi!
“Trưởng thôn, người cá muốn hại chết chúng ta!”
Trưởng thôn chỉ im lặng nhìn hắn, không đáp.
Trong đám đông bắt đầu vang lên những tiếng xì xào.
“Nhưng tôi chữa ba lần rồi, vảy trên người thật sự sắp hết đấy thôi.”
“Phải đó, tôi ăn một lần thuốc chồng mang về, người không còn bong vảy nữa.”
“Chồng tôi chữa hai lần, khỏi còn nhanh hơn tôi nữa ấy!”
Cả nửa ngày, chẳng ai bênh hắn.
Hắn hoảng loạn, kéo người bên cạnh chỉ vào xác vợ:
“Nàng ta lừa các người! Người cá đang lừa các người!”
Người bị hắn kéo đều bịt mũi, tránh xa hắn.
Không còn cách nào, hắn đứng giữa sân, chỉ tay về phía mọi người, hét khản cả giọng:
“Các người… không tin tôi sao?
“Vợ tôi chết ngay đây rồi, các người cũng không tin lời tôi sao?”
Đáp lại hắn chỉ là bóng đêm và sự im lặng lạnh lẽo.
Không, còn một giọng nói thản nhiên vang lên:
“Không phải cô ta chết vì người cá, mà là vì ngươi, đúng không?”
14
Mọi người quay lại nhìn, chị tôi đã ngồi dậy trên cáng.
“Ba lần đầu chữa bệnh, ngươi chỉ nhận thuốc, không hơn không kém, vừa đủ để cô ta khỏi.
“Nhưng ngươi chẳng cho cô ta uống lần nào, lừa cô ta rằng ngươi không lấy được thuốc.”
Giọng chị bình thản, nhưng chắc nịch.
Cả đám người xôn xao, còn Ngô A Tam thì sững sờ, lùi lại mấy bước.
Hắn đứng đờ ra, rồi giọng run rẩy:
“Không phải… không phải như thế.
“Tôi… tôi tưởng mình sống không nổi nữa.”
Nói rồi hắn ngồi sụp xuống đất, khóc nức nở:
“Ba lần liền! Ba lần tôi chỉ được thuốc cho vợ!
“Nếu trong một tháng không khỏi, tôi sẽ chết!
“Tại sao tôi phải lấy mạng mình để đổi cho cô ta khỏi bệnh?”
Hắn đập đầu, đấm ngực, tuyệt vọng gào khóc:
“Tôi chỉ không muốn chết rồi còn phải dùng thân xác mình làm thuốc cho cô ta, tôi sai ở đâu?”
Nhưng đám đàn ông quanh đó lại cười khinh bỉ:
“Loại đàn ông như mày cũng gọi là đàn ông à? Mất mặt quá!”
“Không sống nổi thì kéo vợ chết theo à?”
“Thế thì mày cũng nên chết luôn đi cho rồi! Đồ cặn bã!”
Không biết câu nào chạm đến hắn, Ngô A Tam bỗng ngẩng đầu, ánh mắt đỏ ngầu.
15
Hắn nhìn từng người đàn ông trong đám đông, rồi cười phá lên:
“Khác gì tao?
“Trương Nhị Văn, Đường Tân, Trần Khải, Lý Lực… còn mấy đứa lần đầu chỉ được thuốc của đàn bà!
“Đứa nào chẳng nói dối vợ là đã tự khỏi, rồi giấu thuốc đi, ném đi, đốt đi?”
Ánh mắt hắn đầy khinh bỉ, hắn nhổ một bãi xuống đất:
“Chúng mày chẳng qua may mắn hơn tao, sau đó mới được cứu nên mới chịu cho vợ uống thuốc.
“Nếu vẫn chỉ toàn thuốc của đàn bà, chúng mày có cho không? Phì!”
Bãi nước bọt rơi xuống đất như giáng thẳng vào mặt đám đàn ông bị hắn điểm tên.
Bọn họ tái mặt.
Còn những người vợ đứng cạnh, vốn đang hùa theo chửi hắn, giờ trợn tròn mắt nhìn chồng mình.
“Ông chẳng phải nói lần đầu không lấy được thuốc cho tôi sao?”
“Ông cũng giống hắn à? Tự cứu mình, giấu thuốc của tôi?”
“Đồ không có lương tâm! Tôi theo ông bao năm, ông khỏi rồi mà cũng chẳng cho tôi thuốc!”
Những người đàn ông khác dù không bị chỉ mặt cũng bị vợ nhìn chằm chằm, nghi ngờ tràn ngập.
Cảnh hỗn loạn kéo dài đến tận sáng.
Mà sáng ra, ai cũng lại phải làm người đoan chính, giữ thể diện.
Có những chuyện, có những lời, không thể phơi dưới ánh mặt trời.
16
Ngay cả Ngô A Tam — kẻ vừa khóc vừa cười suốt đêm — cũng rửa mặt, rồi nghiêm trang đến trước mặt trưởng thôn:
“Người chết là lớn.
“Mong mọi người giúp tôi chôn cất vợ.”
Trời sáng, mùi tanh tuy bớt nồng nhưng vẫn khiến người ta nhăn mặt.
Hắn không xin quàn linh, chỉ muốn chôn cất, trưởng thôn cũng không tiện từ chối.
Ông ta gọi vài gã đàn ông giúp hắn gỡ xác vợ xuống.
Kỳ lạ là xác vợ hắn đã mềm ra, nhưng hai chân vẫn dính chặt như dính keo.
Hắn định thay quần cho vợ cũng không tách nổi hai chân ra.
Trưởng thôn lại bảo mấy người đi trước ra nghĩa địa đào huyệt.
Những người khiêng xác đặt lên tấm ván cửa, khiêng đi.
Cả làng, già trẻ gái trai, đều giữ vẻ mặt buồn bã, đưa tang.
Những người đàn bà thân thiết với cô ta cũng khóc rấm rứt, rơi không ít nước mắt.
Sau đó lại ngả vào lòng chồng, sụt sùi một lúc rồi nín.
Chẳng còn chút nào của bộ dạng gào thét đêm qua.
Vợ Ngô A Tam được chôn cất xong, chị tôi lại bị khiêng về từ đường.
Dù sao dân làng vẫn còn cần chị — để chữa bệnh, và để lấy thuốc.
17
Chưa đến nửa tháng sau, khi chị tôi đang chữa bệnh cho một người đàn ông, bỗng ho ra một ngụm máu.
Người đàn ông kia vừa sợ vừa hoảng, nhưng mạng mình vẫn là quan trọng nhất, vội vã làm xong việc rồi chạy đi gọi trưởng thôn đến.
Trưởng thôn đi vòng quanh chị mấy lượt, rồi đưa tay sờ lên phần lưng dưới của chị.
Ông ta nhìn chị với giọng tiếc nuối xen lẫn thương hại:
“Người cá, lưng cô mọc ra một viên ngọc rồi, cô biết không?”
Chị gật đầu.
“Tôi biết, đó là yêu châu của người cá.
“Khi viên yêu châu này trồi ra khỏi da thịt hoàn toàn, cũng là lúc người cá chết.”
Trưởng thôn im lặng một lúc, nếp nhăn trên trán lại sâu thêm:
“Cô vốn có thể làm người cá thêm mấy năm nữa.
“Nhưng giờ cô đã hiến hết thần lực, e rằng không qua nổi bảy ngày.”
Chị vẫn điềm tĩnh, chỉ khẽ nói “biết rồi.”
Trước khi trưởng thôn ra khỏi từ đường, chị gọi lại.
“Tôi chết vì làng, lời ngài đã hứa, xin đừng quên.
“Nhà tôi sẽ không còn thêm người cá nào nữa.”
Trưởng thôn gật đầu, đóng cửa từ đường.
Tôi hiểu, chị đã đổi lấy mạng sống của tôi.
Thì ra người cá phải lấy mạng mình để trả cho những cúng tế kia.
Bảo sao chị không muốn tôi làm người cá.
Làm người cá, chẳng tốt đẹp gì.
18
Hôm sau, trưởng thôn lại tập hợp toàn bộ dân làng trước tế đàn.
Chỉ qua một đêm, ông ta như già đi mấy chục tuổi.
“Người cá chỉ còn sống được bảy ngày nữa thôi.”
Giọng ông ta không to, nhưng khiến cả đám người hoảng loạn.
Tính từ đợt đầu chữa bệnh, mỗi nhà chỉ mới chữa năm lần.
Đàn ông ba lần, đàn bà hai lần — đều thiếu một lần cuối.
Chị tôi còn sống bảy ngày, mà mỗi lần chữa lại cách nhau bảy ngày.
Tất cả chỉ còn một cơ hội duy nhất.
Từ dạo đó, trong làng đã khác hẳn.
Bề ngoài đàn bà vẫn ngoan ngoãn với chồng, nhưng trong chuyện “chữa bệnh”, họ đã đổi khác.
Mỗi khi đến lượt chồng đi từ đường, họ hoặc dỗ ngọt, hoặc giận dữ, bằng mọi cách ép chồng mang thuốc về.
Nhà nào chồng không mang thuốc về, thì nửa đêm vợ mài dao.
Ai cũng hiểu, đàn bà đang đề phòng chồng mình.
Mà đàn ông cũng phòng lại vợ.
Họ mang thuốc về, nhưng đều tính kỹ số lần — vợ phải chậm hơn mình một lượt mới được.
Nhà nào cũng như thế.
Ai nấy đều còn thiếu một lần cuối, ai cũng sẽ làm mọi cách để giữ lấy mạng mình.
19
Bảy ngày cuối cùng, ai cũng muốn có thuốc, ai cũng muốn sống.
Nhưng bi kịch cũng bắt đầu từ bảy ngày đó.
Đàn ông vẫn theo thứ tự rút thăm, ban đêm vào từ đường chữa bệnh.
Nhưng phụ nữ trong làng lại chặn cửa, không cho vào.
Họ không còn giấu giếm nghi ngờ, nói toạc ra:
“Lần chữa bệnh cuối cùng này, chúng tôi phải ở đó!
“Cách chữa này trói mạng chúng tôi vào các người, đàn bà chúng tôi chẳng có quyền gì cả!
“Không công bằng!
“Các người — ai cũng như Ngô A Tam thôi!
“Chúng tôi phải tận mắt thấy các người chữa bệnh, để chắc chắn là còn cho vợ sống sót!”
Lần đầu tiên, phụ nữ trong làng cùng đứng về một phía, cứng rắn vô cùng.
Khi đàn ông xông vào từ đường, họ đã tay nắm tay, vây chặt quanh tôi và chị.
“Chúng tôi không đồng ý! Các người đừng hòng động vào người cá!”
Họ nói đầy chính nghĩa, còn có người quay lại an ủi chị đừng sợ.
Họ nói, lần này, họ sẽ bảo vệ chị đến cùng.
20
Đàn ông không chịu, đàn bà cũng không lùi, dù bị tát cũng không tránh.
Mắng chửi, đánh đập, không ai lung lay nổi họ, đành phải mời trưởng thôn đến.
Nhưng lần này, uy của trưởng thôn cũng không khiến họ cúi đầu.
Họ cắn chặt răng, đòi tự mình giữ lấy cơ hội cuối.
“Sống hay chết, tôi phải tận mắt thấy.”
Cuối cùng, đàn ông đành nhượng bộ.
Cả từ đường đầy ắp phụ nữ, bên giường chị tôi kê thêm một cái ghế.
Người đàn ông nào rút trúng thăm, thì vợ hắn ngồi lên ghế đó, dán mắt nhìn.
Những người đàn bà khác tuy không ngồi cạnh giường, cũng ở trong phòng, giám sát cho nhau.
Hàng chục ánh mắt phụ nữ dõi chặt vào cảnh đàn ông cởi đồ, lên giường, làm việc.
Người vợ nào cũng gần như dí sát mặt vào chồng mình, mắt như muốn bật ra khỏi hốc.
Họ phải nhìn xem, chồng mình có dám giấu đi cơ hội sống không.
Còn đàn ông thì cắn răng nghiến lợi, gân xanh nổi đầy đầu.
Có người tức giận chửi vợ, có người tự tát chính mình, vẫn không chịu để “thuốc” cuối cùng thuộc về đàn bà.
Xong việc, họ vội mặc quần áo bỏ chạy, chẳng thèm nhìn người vợ ngồi thất thần bên ghế.
Hai ngày đầu, hầu hết đàn ông đều giữ được cơ hội sống.
Nhưng đàn bà không ngồi yên nữa.
Ban ngày, họ tụ tập bàn nhau cách làm suy yếu chồng — chia nhau những bài thuốc hại thận.
Về nhà, họ đổi hết đồ ăn thức uống của chồng.
Đêm đến, khi đàn ông đi từ đường, họ cũng không chịu ngồi yên.
Không còn thụ động như trước, họ chen tới, rúc tai chồng, sán lại trước mặt, quằn quại như mấy con chó giữ cửa.
Lạ thay, cách ấy lại hiệu quả.
Số đàn ông mất kiểm soát càng lúc càng nhiều.
Chỉ cần vợ thấy chồng có biểu hiện khác lạ, lập tức nhào tới, kéo hắn ra:
“Thuốc! Tôi có thuốc rồi!”
21
Lúc đó, không khí lại giống như đêm vợ Ngô A Tam chết —
Hai phe đàn ông đàn bà, xé nhau đến cùng.
Tất cả những năm tháng chung sống, bỗng hóa ra vô nghĩa.
Bảy ngày cuối cùng trong đời chị tôi, chị như một vật vô hồn.
Chị nhìn đám người quen biết bao năm ấy, vì chút thuốc cuối mà hóa điên, hóa thú.
“Nhưng ta thì khác gì họ đâu?
“Chẳng phải tất cả đều như súc vật, chỉ còn lại bản năng và dục vọng thôi sao?”
Chị nằm giữa chính điện, bị đàn ông kéo qua, đàn bà giằng lại.
Nhưng dù có giày vò chị đến tận xương tủy, cả làng cũng chỉ cứu được một nửa.
Nửa còn lại, vì thiếu liều thuốc cuối, vẫn phải chờ chết.
Điều ấy khiến dân làng không cam lòng.
Vì vậy, ngay ngày chị tắt thở, trưởng thôn cầm dao, moi viên yêu châu sau lưng chị ra.
“Phải làm thêm một người cá nữa, thử xem hiến tế người cá mới có cứu được nửa làng còn lại không.
“Tôi là trưởng thôn, chừng nào trong làng còn một người chưa khỏi bệnh, tôi cũng không yên lòng.”
Những người còn thiếu thuốc reo hò ca ngợi trưởng thôn “đại nghĩa”,
Chỉ có tôi ngồi lặng, đếm ngón tay đi đếm lại.
Hình như… trưởng thôn cũng vẫn còn thiếu một lần thuốc nữa.
22
Viên yêu châu trong tay trưởng thôn vẫn còn rỉ máu.
Ông ta lấy khăn lau, nâng viên ngọc lấp lánh ánh xanh, vẫy tôi lại.
“Yêu châu đã lấy rồi, khỏi phải làm yến người cá.
“Tiểu Hàn, lại đây, lau người cho chị con đi.”
Mắt ông ta ươn ướt, rơi hai giọt nước mắt:
“Chị con đã hiến hết thần lực cho làng, cũng nên để lại toàn thây chứ.
“Con đến, tiễn chị con đi.”
Tôi gật đầu, lòng thấy ấm áp.
Trưởng thôn thật tốt với chị.
Theo lệ làng, người cá chết sẽ bị đem ra làm tiệc yến.
Thịt người cá chứa thần lực, ăn vào thì khỏe mạnh.
Nhưng trưởng thôn lại để chị tôi được toàn thây.
Tôi vắt khăn, nhẹ nhàng lau người cho chị.
Khi đang lau mặt, đôi mắt nhắm chặt của chị bỗng mở ra.
Tôi hoảng hốt kêu lên.
Ngay sau đó, một cái giỏ cá khổng lồ úp xuống người tôi.
23
Tôi thét lên.
Trưởng thôn quát một tiếng, từ chỗ tối lao ra một đám đàn ông.
Tôi nhận ra họ — đều là những người bảy ngày qua chỉ nhận được “thuốc của đàn bà”.
Họ cùng nhau đè chặt giỏ cá, nhét tôi vào trong.
Khi tôi bị nhét kín trong giỏ, một bàn tay to thò vào, bẻ miệng tôi ra.
Trưởng thôn tiến lại, trong tay cầm viên yêu châu còn dính máu chị tôi.
Ông ta nhét viên ngọc vào miệng tôi, ép tôi nuốt xuống.
Tôi không hiểu hết chuyện người lớn, nhưng bị nhốt trong giỏ cá, tôi hiểu — họ muốn làm tôi thành người cá mới.
Làm người cá — không tốt! Tôi không muốn!
Tôi vùng vẫy, nhưng bị ép chặt, không nhúc nhích nổi.
Tôi muốn hét lên, nhưng sau khi nuốt yêu châu, cả người tôi dần mê man.
Tôi chỉ còn kịp nhìn thấy họ khiêng giỏ cá lên, mang tôi ra ngoài.
Cửa từ đường khép lại sau lưng tôi, chị vẫn nằm trong kia, chưa được lau sạch hết máu.
“Các người đã hứa với chị tôi rồi, đã hứa rồi mà sao không giữ lời?”
Tôi thì thào khi bị đặt lên tế đàn — chính nơi chị từng nằm.
Không ai đáp lại.
Cả làng lại tụ tập, vây quanh tôi.
Giống như khi chị tôi hóa người cá, cũng giống như đêm vợ Ngô A Tam chết.
24
Nhưng lần này, gần tôi nhất là những kẻ còn thiếu thuốc.
Tôi nhìn rõ ánh thèm khát trong mắt họ, ánh sáng đó khiến tôi sợ.
Tôi bắt đầu run, nước mắt mờ cả mắt, chẳng nhìn rõ mặt người nào nữa.
Tiếng ồn ào dần lắng, rồi tôi nghe tiếng ai đó lao tới, gào khóc.
“Các người đã hứa với Tiểu Uyển rồi!
“Lần sau làm người cá sẽ bỏ qua nhà chúng tôi!
“Các người đã hứa sẽ tha cho Tiểu Hàn mà!”
Là tiếng mẹ.
Tôi cố quay đầu về phía giọng nói.
Chỉ thấy bóng người mờ mờ bị đám người giữ chặt.
Giọng trưởng thôn vang lên ngay trên đầu tôi:
“Vốn dĩ người cá phải là Tiểu Hàn.
“Tiểu Hàn nhỏ tuổi, lại ngốc, mới là người cá thuần khiết nhất!
“Nếu năm đó làm Tiểu Hàn, thần lực hẳn đã cứu được cả làng rồi!”
Lời ông ta khiến đám đông nhao nhao hùa theo, tiếng họ át hẳn tiếng mẹ.
Họ đè mẹ xuống, kéo đi xa dần.
Mẹ cố vùng vẫy.
Rồi có người giơ vật gì đó lên cao, đập xuống đầu mẹ.
Mẹ không cử động nữa, mặc cho họ lôi đi.
Mi mắt tôi nặng dần, không mở nổi nữa.
Trước khi nhắm mắt, trưởng thôn đứng trước tôi, mặt hướng về mẹ, mắt lại nhìn tôi:
“Hứa với cô ta là lần sau bỏ qua nhà cô,
“Nhưng lần này, không tính là ‘lần sau’. Ta định luôn là nhà cô.”
25
Khi mở mắt lại, hai chân tôi đã bị khâu lại, thành một chiếc đuôi cá.
Tôi đã trở thành người cá mới.
Dân làng reo hò, dâng lên cho tôi những món ngon nhất.
Họ khiêng tôi vào từ đường, cười nịnh, cầu tôi phù hộ.
Họ không cần tôi cầu cho mùa màng, chỉ cần tôi ngoan ngoãn nằm đó —
Nằm cạnh thi thể đang thối rữa của chị, để họ chữa bệnh, lấy thuốc.
Người đầu tiên cởi áo tôi là trưởng thôn.
Tôi hỏi ông ta, vì sao không giữ lời hứa với chị tôi.
Ông ta không đáp, chỉ dùng miệng ướt át chà lên người tôi.
Tôi lại hỏi, khi họ làm tôi thành người cá, mẹ có đến không, họ đã làm gì mẹ.
Ông ta vẫn không nói, chỉ thở hổn hển trên người tôi.
Tôi hỏi thêm, ông ta, bọn họ, đối với người cá có từng có chút kính trọng nào không.
Ông ta dừng lại, giật lấy miếng vải rách bên cạnh, nhét vào miệng tôi:
“Người cá, điều quan trọng nhất là biết nghe lời!”
26
Tôi không hỏi nữa, mặc kệ ông ta rời đi, lại có người khác bước lên.
Người cá — điều quan trọng nhất là nghe lời.
Chỉ có người cá mới biết nghe lời.
Bảy ngày nữa trôi qua, lần này cả làng đã khỏi bệnh.
Tôi đã cứu cả làng.
Làm người cá, quả nhiên là “tốt nhất”.
Bên ngoài từ đường trống chiêng vang dội, pháo nổ ầm trời, họ mừng “tái sinh”.
Trong tiếng hò reo, chẳng ai nhớ đến xác chị tôi đang thối rữa trong kia.
Cả mẹ tôi cũng không còn đến thăm.
Bà dường như đã quên.
Tôi thấy buồn.
Không có mẹ, không có chị — làm người cá chẳng tốt chút nào.
Tôi la lên, bảo họ gọi mẹ tôi đến, tôi nhớ mẹ.
Có người mở cửa nhìn vào, liếc tôi một cái rồi bỏ đi.
Tôi lại la lên, bảo họ gọi trưởng thôn đến, chị tôi đã bắt đầu bốc mùi, phải chôn thôi.
Trưởng thôn bị kéo đến, cau mày nhìn tôi, rồi quay lưng đi.
Trước khi ra, ông ta còn khóa chặt cửa.
Tôi là người cá, tôi đã ngoan ngoãn.
Sao họ lại chẳng chịu nghe tôi?
27
Lễ mừng kéo dài ba ngày ba đêm,
Mỗi ngày chỉ đến hoàng hôn mới có người nhét cho tôi một miếng bánh vào khe cửa.
Tiếng hò reo ngoài kia, chẳng liên quan gì đến tôi.
Sự “tái sinh” của họ, cũng chẳng liên quan đến tôi.
Sáng ngày thứ tư, cửa từ đường cuối cùng cũng mở ra.
Trưởng thôn mặt đỏ gay, được người dìu vào.
Ông ta vịn giường tôi, rót rượu ra, đưa tôi, nhưng tay run làm đổ nửa ly:
“Uống đi, uống!
“Lần này chữa khỏi cả làng, công người cá lớn lắm!”
Ông ta dựa đầu lên vai tôi, hơi rượu nồng nặc:
“Cô chuẩn bị đi, tối nay làng sẽ thưởng cho cô hậu hĩnh!”
Nói rồi, ông ta chu môi định hôn tôi.
Tôi cau mày, cố lùi lại, thầm cầu mong cái thứ ghê tởm ấy tránh xa.
Ngay khi môi ông ta sắp chạm vào mặt tôi, ông ta bỗng khựng lại.
Sắc mặt thay đổi, rồi quay người, nôn thốc nôn tháo.
Dù khiến từ đường đầy mùi hôi thối, nhưng thứ ghê tởm ấy cuối cùng cũng bị người ta dìu đi xa.
28
Khi đêm xuống, dân làng đã nghỉ ngơi suốt một ngày lại nhóm lửa trước từ đường.
Họ dựng lên một chiếc giường hoa thật to, rồi khiêng tôi đặt lên đó.
Những người phụ nữ trong làng tắm rửa cho tôi từ đầu đến chân, thay cho tôi bộ quần áo mới, còn cài hoa lên tóc.
Tôi ngồi trên giường hoa, nhìn gương mặt mọi người sáng lên trong ánh lửa.
Nhà nào cũng sum vầy, người nào cũng vui vẻ.
Chỉ có tôi, không còn mẹ, cũng chẳng còn chị.
Dân làng dưới sự dẫn dắt của trưởng thôn, lần lượt tiến lên mời rượu tôi.
Tôi không biết uống, trưởng thôn nhíu mày, khẽ phất tay:
“Người cá không nghe lời là không được đâu.”
Tôi đành một ly lại một ly nhận lấy, rồi uống hết từng ly.
Không biết uống bao nhiêu, tôi không chịu nổi, nằm gục xuống giường hoa.
Trước mắt là những bóng người chao đảo, họ bắt đầu cởi áo, chen lấn chạy về phía tôi.
Trong lòng tôi thắc mắc — chẳng phải họ đều đã khỏi bệnh rồi sao, sao còn cần “lấy thuốc”?
Đến khi họ tiến sát, tôi mới hiểu mình đã sai.
Trên tay mỗi người, đều là một con dao găm sáng loáng.
29
“Yến người cá là truyền thống của làng, không ăn thì sao mà trường thọ được?”
Nói rồi, một lưỡi dao đâm rách da tôi.
Cơn đau khiến tôi choàng tỉnh.
Tôi theo phản xạ nắm chặt con dao, nhìn người đang cầm nó — trưởng thôn.
“Tại sao?” tôi hỏi.
Ông ta ngước mắt, giọng bình thản:
“Yến người cá của chị cô chưa kịp làm, là món nợ cô ta nợ chúng tôi.
“Cô là em, tự nhiên phải thay chị mà trả.”
Nói xong, ông ta giơ tay kia lên, vỗ vỗ má tôi:
“Đã làm người cá, thì phải nghe lời.
“Chúng tôi bảo cô làm gì, cô phải làm nấy.”
Tôi nhìn ông ta, sự mơ hồ trong lòng dần tan biến.
Tôi nở một nụ cười rạng rỡ:
“Chỉ có người cá mới phải nghe lời sao?
“Vậy… mọi người cùng làm người cá đi, được không?”
30
Tôi khẽ siết tay, con dao găm gãy làm đôi, lưỡi dao vẫn cắm trong thân thể tôi.
Nhưng vết thương lại nhanh chóng liền lại.
Đầu óc tôi bỗng sáng suốt lạ thường, tôi đứng lên giữa giường hoa.
Đám người đang lao tới sững lại, nhìn về phía trưởng thôn:
“Trưởng thôn, chẳng phải ngài nói trong rượu có bỏ thuốc mềm gân sao? Uống vào thì người cá chắc chắn không còn sức nữa mà?”
Tôi liếc chén rượu còn sót, chợt hiểu ra.
Họ định hạ thuốc, rồi lại ăn sạch tôi như đã làm với chị?
Hay thật, tính toán thật giỏi — nhưng bọn họ, chẳng có ai biết nghe lời cả.
Tôi nhớ đến lời “dạy” của trưởng thôn, ngẩng đầu nhìn họ, khẽ cất giọng hát.
Đó là khúc ru mà chị từng hát cho tôi thuở nhỏ, chẳng hiểu sao giờ lại muốn hát lên.
Tiếng hát ngân ra, đám người cầm dao dần ngây dại, ánh mắt mờ đi.
Họ loạng choạng đi tìm người thân, nắm tay nhau, đối mặt mà ngồi xuống.
Bị tiếng hát mê hoặc, họ siết chặt những con dao trong tay.
31
Người ra tay đầu tiên là Ngô A Tam.
Hắn đã lấy vợ mới, nắm tay vợ ngồi xuống, mặt tràn đầy âu yếm.
“Em là người vợ tốt nhất đời anh.
“Anh sẽ cho em điều vinh quang nhất trên đời này.”
Ngay sau đó, hắn cắm phập dao vào đùi trong của vợ.
Người vợ chẳng kêu đau, đôi mắt chan chứa xuân ý nhìn hắn dịu dàng:
“Anh nói tốt, vậy nhất định là tốt.”
Ngô A Tam không nói, nắm chặt chuôi dao, kéo mạnh xuống phía cổ chân, gân xanh nổi khắp tay.
Máu, thịt và mảnh quần rách quấn vào nhau.
Nhưng trong mắt cô ta vẫn là ánh nhìn si mê.
Hắn thấy vậy, trên mặt cũng hiện lên nét hưng phấn.
“Anh làm vì em, em sắp trở thành người tôn quý nhất làng này rồi!”
Hắn nhặt hòn đá bên cạnh, không nhìn, nện thẳng vào chân vợ.
Cô ta chỉ khẽ thở ra, vẫn không chút biểu cảm đau đớn.
Ngô A Tam càng nện càng hăng, vừa làm vừa khen vợ mình là tuyệt sắc.
Cô ta như chợt hiểu ra, cũng muốn nếm thử “vinh quang” ấy.
“Nếu là người tôn quý nhất, chẳng phải sẽ cao hơn anh sao?
“Không được, anh là chủ nhà, sao em có thể cao hơn anh được.
“Anh cũng phải cùng em mới đúng.”
Cô nhặt dao dưới đất, bắt chước hắn, cắt đùi hắn, nện gãy xương hắn.
Đến khi cả hai đôi chân đều cong vẹo, nằm bẹp dưới đất, mới dừng lại.
32
Ngô A Tam thò tay vào vết thương của vợ, moi ra mảnh xương vụn.
“Anh làm tất cả là vì em.”
Vợ hắn cũng không rảnh, nắm tóc mình giật mạnh, nhổ cả nắm.
“Em hiểu, tốt thì phải cùng nhau tốt.”
Ngô A Tam dùng tóc của vợ, khâu hai chân cô ta thành đuôi cá.
Rồi đợi cô ta moi sạch thịt chân hắn, khâu cho hắn một chiếc đuôi.
Hai người với đôi đuôi cá bê bết máu ôm nhau hôn say đắm.
Một nụ hôn chan hòa toàn là máu.
Không chỉ họ — cả làng, từng người, từng người một.
Đều đang làm người cá, cũng bị làm thành người cá.
Tất cả đắm chìm trong cơn điên cuồng, tận hưởng “vinh quang tối thượng”.
Tôi nhìn đám người tay nhuốm máu, khẽ nhếch môi.
Giờ họ, đều là người cá rồi.
“Đã là người cá, quan trọng nhất… là phải biết nghe lời.”
33
Nói xong câu ấy, tôi dừng hát.
Cả đám người đồng loạt khựng lại, rồi hoảng hốt nhìn xuống thân dưới.
Họ giơ bàn tay đầy máu, hét thảm, ôm lấy chiếc đuôi cá của mình, lăn lộn trên đất.
Họ gào khóc, cố lấy dao cắt đuôi.
Nhưng vừa rời dao, đuôi lại liền.
Máu loang khắp nền, tụ thành một vũng nhỏ.
Những “người cá” trong làng giãy dụa trong vũng máu, bắn tung những gợn đỏ sẫm.
Không biết ai hô đầu tiên, rồi tất cả cùng làm theo —
“Cắt đuôi!
“Ta không muốn làm người cá nữa! Cắt đuôi đi!”
Nhưng không ai thoát được.
Dao, đá chỉ rạch lên những đường đứt rời, từng lớp thịt rách mở ra như vảy cá.
Khắp nửa thân dưới phủ kín vảy.
Họ sợ, không dám động nữa.
Những vảy cá ấy lan ra, che kín cả chiếc đuôi.
34
Họ nhìn vảy trên người mình, tiếng kêu rền rĩ lại vang lên khắp làng.
“Bệnh lại đến rồi! Gió thổi cũng đau quá!”
Theo tiếng la hét, vảy trên chân họ cuộn lên rõ rệt —
Cá mà nổ vảy, là chết.
Tôi nhìn họ đau đớn, thoáng thương xót.
Tôi chống đuôi lên, múc một thùng nước, rưới lên từng người.
Nước làm dịu da họ, tiếng kêu nhỏ dần.
Nhưng nước — sẽ bay hơi mà.
35
Một phút… hai phút… mười phút.
Khi đã nếm vị “không đau”, rồi lại đau, thì càng khủng khiếp.
“Người cá! Cứu mạng!”
“Cho tôi nước… cho tôi chút nước thôi!”
Họ nhìn chằm chằm vào nửa thùng nước tôi còn cầm, như phát điên.
Tiếng kêu cứu, tiếng đập đầu, tiếng van lạy, hòa lẫn vào nhau.
Tôi bơi đến chỗ trưởng thôn, nghiêm giọng:
“Nước là tài nguyên của làng, chia sao phải do trưởng thôn định, đúng không?”
Ông ta ngẩng đầu, mừng rỡ, vội vươn tay định lấy thùng nước.
Tôi nhìn chiếc đuôi cá của ông ta, rụt tay lại.
“Không đúng, ngài nói người cá phải nghe lời.
“Giờ ngài cũng là người cá rồi, cũng phải nghe lời chứ.”
Trưởng thôn hụt tay, mặt sầm lại:
“Người cá, đừng làm loạn!
“Cô là người cá, phải lo cho phúc làng.
“Sao có thể thấy chết mà không cứu?”
Tôi nghe mà bật cười.
Thật đúng là trò cười hay nhất tôi từng nghe.
“Thấy chết không cứu à?
“Ý ngài là giống mấy chục năm trước, khi làng mắc bệnh, ông nội ngài — khi ấy làm trưởng thôn — đem toàn bộ gái trẻ ra mổ làm người cá tế trời, cái đó mới là ‘thấy chết không cứu’, đúng không?”
Ông ta trừng lớn mắt, run rẩy chỉ tôi, “ngươi… ngươi…” mãi chẳng nói nổi.
36
Tôi cúi mắt nhìn ông ta, ký ức không thuộc về tôi ào đến.
“Ngài muốn hỏi ta sao biết ư?
“Sao ta biết người cá nương nương chưa bao giờ tự nguyện hiến tế,
“mà là bị các ngươi nhân danh ‘cứu làng’ mà giết?”
Trong đầu tôi vang lên tiếng khóc, tiếng cầu xin của bao thiếu nữ.
Và hình ảnh một cậu bé — chính là trưởng thôn khi còn nhỏ.
Cậu ta giúp ông nội đè những cô gái xuống, thì thầm bên tai họ:
“Nếu không làm vậy, các ngươi sẽ chết, cha mẹ các ngươi cũng chết.
“Ông nội ta làm thế là để cứu các ngươi, là vì tốt cho các ngươi!”
Hai mươi mấy thiếu nữ, sau khi bị mổ chân làm đuôi, chỉ còn sống sót một người.
Có lẽ nhờ hiến tế, cô ta thật sự có thần lực.
Lời cầu nguyện của cô, khiến trời đổ cơn mưa đỏ.
Ai uống nước mưa ấy, bệnh đều khỏi.
Dân làng tung hô, tôn cô làm thần, dựng tượng, lập từ đường, bắt cô cầu khấn hết lần này đến lần khác —
Đến khi sinh mệnh cạn kiệt.
Miệng họ gọi “người cá nương nương”, nhưng trước từ đường, họ mở yến tiệc người cá, ca múa quanh lửa.
No nê xong, họ nhìn viên yêu châu lấy từ thân thể người cá mà im lặng.
Đã quen hưởng lợi từ lời cầu khấn của người cá, họ nào chịu dừng?
“Làng không thể thiếu người cá.”
37
Nghe tôi kể xong, những người già trong làng thôi lăn lộn, nín lặng.
Họ cúi gằm, chẳng dám nhìn tôi.
Đám thanh niên nhìn họ, biết lời tôi không sai.
Sau một hồi im ắng, có người lên tiếng:
“Tội đó là do đời trước gây ra, đâu phải do chúng tôi!”
Tôi bật cười, cười đến cong lưng, cười ra nước mắt.
Tôi chỉ chiếc đuôi mình, hỏi lại:
“Thế còn tôi? Còn chị tôi?
“Còn mẹ tôi — người bị các người đánh chết?
“Những tội trên người chúng tôi, không phải do các người sao?”
Họ câm lặng.
Chỉ có ai đó lí nhí, rất nhỏ, nhưng tôi vẫn nghe rõ:
“Chẳng phải nói… nó là đứa ngốc sao, sao giờ lại tỉnh táo thế này?”
38
Đúng, tôi là đứa ngốc.
Cũng vì thế, chị luôn thương tôi.
Khi làm người cá, chị thay tôi.
Trước khi chết, chị lại cầu xin cho tôi được sống.
Quan trọng nhất — trước khi tắt thở, chị bắt tôi dìu chị hướng về tượng người cá nương nương, dâng lời cầu nguyện cuối cùng:
“Nếu em gái tôi còn sống, xin để nó mãi ngu ngơ, không biết đến đau khổ.
“Nếu dân làng thất tín, hại em tôi, xin hãy trao cho nó trí tuệ của tôi.
“Đến khi ấy, ngôi làng này sẽ nhận lấy báo ứng của chính mình.”
Chị đã đánh cược vào lương tri của con người.
Nhưng chị thua rồi.
Không sao, vẫn còn tôi.
Đã làm người cá, thì phải biết nghe lời.
Chỉ là… tôi nghe lời chị.
Chị muốn làng phải trả giá, vậy tôi sẽ là kẻ đến đòi nợ.
Người cá, đều phải nghe lời.
Từ nay trở đi, cả ngôi làng này — sẽ phải nghe lời tôi.
(— Toàn văn hoàn —)

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét